✨Đu đủ
Đu đủ hay thù đủ (danh pháp khoa học: Carica papaya) là một cây thuộc họ Đu đủ, bộ Cải. Đây là cây thân thảo to, không hoặc ít khi có nhánh, cao từ 3–10 m. Lá to hình chân vịt, cuống dài, đường kính 50–70 cm, có khoảng 7 khía. Hoa trắng hay xanh, đài nhỏ, vành to năm cánh. Quả đu đủ to tròn, dài, khi chín mềm, hạt màu nâu hoặc đen tùy từng loại giống, có nhiều hạt.
Đu đủ thường được ăn xanh như một loại rau (làm nộm và hầm) và ăn chín như một loại trái cây. Trong quả đu đủ có một enzyme gọi là papain, một loại protease có tác dụng làm mềm thịt và các chất protein khác, do đó đu đủ xanh thường được hầm chung với thịt giúp thịt nhanh mềm.
Đu đủ là thứ quả được dùng trong mâm ngũ quả ngày Tết của người Nam Bộ Việt Nam (gồm các thứ quả mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài). Theo quan niệm của người miền Nam, cách đọc ghép tên loại quả này nghe giống như "cầu sung vừa đủ xài".
Mô tả
Đu đủ là một loại cây nhỏ, nhánh thưa thớt, thường chỉ có một thân, chiều cao khoảng 3, hoặc , lá cây sắp xếp xoắn ốc tập trung ở phần ngọn của thân cây. Phần thân cây có sẹo (mô thực vật) là nơi sinh ra lá và quả. Các lá lớn, đường kính , lá hình dạng thùy, với bảy thùy. Tất cả các bộ phận của cây đều chứa mủ với các chuỗi tế bào tiết mủ liên kết. Những bông hoa có mùi thơm dịu, nở vào ban đêm và thụ phấn nhờ gió hoặc côn trùng. Khi quả chín, sờ vào quả thấy mềm (mềm như bơ chín), vỏ của nó có màu từ hổ phách đến màu cam, dọc theo thành của khoang lớn ở giữa quả có nhiều hạt màu đen.
thumb|right|Bản đồ sản xuất đu đủ trên thế giới
Nguồn gốc
Cây có nguồn gốc từ vùng đất thấp ở miền nam México, miền đông Trung Mỹ, và bắc Nam Mỹ. Ngày nay, đu đủ được trồng ở phần lớn các nước nhiệt đới như Brasil, Ấn Độ, Sri Lanka, Philippines, Việt Nam,...
Trồng trọt
Cây đu đủ có 3 giới hoa: đực, cái và lưỡng tính. Hoa đực chỉ tạo ra phấn hoa, không bao giờ kết trái. Hoa cái tạo ra những quả nhỏ, không ăn được trừ khi được thụ phấn. Cây lưỡng tính có thể tự thụ phấn vì hoa của nó chứa cả nhị và bầu nhụy. Hầu hết tất cả các vườn đu đủ thương mại là cây lưỡng tính.
Đu đủ có nguồn gốc từ miền nam Mexico (đặc biệt là Chiapas và Veracruz), Trung Mỹ và bắc Nam Mỹ,
Giống cây trồng
Có hai giống đu đủ thường được trồng. Một loại có thịt ngọt, màu đỏ hoặc cam, và loại còn lại có thịt màu vàng; ở Úc, chúng được gọi là "đu đủ đỏ" và "đu đủ vàng". Bất cứ giống nào được hái khi còn xanh thì được gọi là "đu đủ xanh".
Những trái đu đủ lớn, có quả đỏ 'Maradol', 'Sunrise' và 'Caribbean Red' thường được bán tại các chợ ở Hoa Kỳ thường được trồng ở Mexico và Belize.
Vào năm 2011, các nhà nghiên cứu Philippines đã báo cáo rằng bằng cách lai giữa đu đủ với Vasconcellea quercifolia, họ đã phát triển giống đu đủ có khả năng kháng virus gây bệnh đốm tròn đu đủ (PRV).
Giống cây trồng biến đổi gen
Carica papaya là cây ăn quả đầu tiên biến đổi gen khi đã xác định trình tự bộ gen của nó. Vào năm 1998, để đối phó với sự bùng phát của virus gây bệnh đốm tròn trên đu đủ ở Hawaii, đu đủ biến đổi gen đã được phê duyệt và đưa ra thị trường (bao gồm các giống 'SunUp' và 'Rainbow'). Các giống kháng PRV có một số DNA của virus này được kết hợp vào DNA của thực vật. Tính đến năm 2010, 80% cây đu đủ Hawaii đã được biến đổi gen. Việc biến đổi được thực hiện bởi các nhà khoa học của Đại học Hawaii, họ đã cung cấp những hạt giống biến đổi gen cho nông dân mà không tính phí.
Sản xuất
Năm 2018, sản lượng đu đủ toàn cầu là 13,3 triệu tấn, đứng đầu là Ấn Độ chiếm 45% tổng sản lượng thế giới (bảng). Sản lượng đu đủ toàn cầu đã tăng đáng kể trong đầu thế kỷ 21, chủ yếu là do sản lượng tăng ở Ấn Độ và nhu cầu tăng ở Hoa Kỳ. Thường xuyên chiếm hơn một nửa lượng nhập khẩu toàn cầu. Hoa Kỳ nhập khẩu 176 nghìn tấn trong tổng số 324 nghìn tấn đu đủ thương mại trên toàn cầu vào năm 2019; nhập khẩu gần 178 nghìn tấn trong tổng số hơn 322 nghìn tấn vào năm 2020.
Bệnh và động vật gây hại
Virus
Virus đốm trắng đu đủ là một loại virus nổi tiếng đối với đu đủ trồng ở Florida.
Virus khảm lá đu đủ phá hủy cây cho đến khi chỉ còn lại một chùm lá nhỏ. Virus này ảnh hưởng đến cả lá cây và quả. Lá sẽ có các đường mỏng, không đều, màu xanh đậm xung quanh viền lá và hiện rõ ở các vùng xung quanh gân lá. Các lá bị ảnh hưởng nặng hơn có hình dạng không đều và hình dạng tuyến tính. Virus có thể lây nhiễm vào trái cây ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình chín. Trái cây non hai tuần tuổi có vệt nổi màu xanh đậm với đường kính khoảng 1 inch (25 mm). Các vòng trên quả có thể được nhìn thấy ở đầu cuống hoặc cuối hoa đu đủ. Trong giai đoạn đầu vòng khảm xanh phát triển, các vòng có xu hướng là nhiều vòng tròn khép kín, nhưng khi bệnh phát triển thì các vòng này gia tăng đường kính bao gồm một vòng lớn. Sự khác biệt giữa virus đốm và vi rút khảm là khi trái chín ở trái bị đốm sẽ có màu sắc lốm đốm còn trái bị khảm thì không.
Nấm
Nấm thán thư được biết đến là loài đặc biệt tấn công đu đủ, nhất là những trái đã chín. Bệnh bắt đầu từ khi quả còn nhỏ với rất ít dấu hiệu, chẳng hạn như các đốm thấm nước trên quả chín. Các đốm này trở nên trũng xuống, chuyển sang màu nâu hoặc đen, và có thể lớn dần. Ở một số vết hình thành lâu hơn, nấm có thể tạo ra các bào tử màu hồng. Quả cuối cùng bị mềm nhũn và mất hương vị do nấm phát triển trong quả.
Nấm phytophthora bạc lá gây ra hiện tượng chết héo, thối rễ, thối thân, dập thân và thối trái. Hiện tượng chết héo xảy ra ở các cây đu đủ non do héo và chúng sẽ chết. Các đốm trên cây hình thành và khởi đầu là vết bệnh màu trắng, thấm nước ngay chỗ các vết sẹo (thực vật) ở quả và cành. Những đốm này to dần và cuối cùng gây chết cây. Đặc điểm nguy hiểm nhất của bệnh là quả bị nhiễm khuẩn, có thể gây độc cho người tiêu dùng.
Ruồi trắng đu đủ đẻ những quả trứng hình bầu dục màu vàng, tụ thành đám ở mặt dưới của lá. Chúng ăn lá đu đủ, do đó khiến trái bị hỏng. Ở đó, trứng phát triển thành ruồi trong ba giai đoạn. Cá thể trong giai đoạn đầu tiên có chân phát triển tốt và là giai đoạn sống chưa trưởng thành để di chuyển. Một số con trong chúng chèn phần miệng vào bề mặt dưới của lá khi chúng thấy lá đó phù hợp và thường không di chuyển nữa. Giai đoạn phát triển tiếp theo hình dạng chúng phẳng, hình bầu dục và giống vảy lá. Trong giai đoạn cuối, những con nhộng lồi hơn, với đôi mắt to, màu đỏ rõ ràng.
Sử dụng ẩm thực
thumb|Hoa đu đủ đực. Quả đu đủ chưa chín có thể ăn bằng cách nấu chín nhưng không thể ăn sống do hàm lượng mủ độc của nó. Quả đu đủ chín thường được ăn sống, ngoại trừ vỏ và hạt. Hạt đen của đu đủ có thể ăn được và có vị cay, đậm đà. Đu đủ chưa chín hoặc đu đủ gần chín (với thịt quả có màu cam nhưng vẫn còn cứng và xanh) được cắt sợi mỏng và thường được ngâm vào atchara, là món phổ biến như một món ăn phụ cho các món ăn mặn. Đu đủ gần chín cũng có thể được ăn tươi như gỏi đu đủ hoặc cắt khối, và ăn kèm với giấm hoặc muối. Đu đủ xanh cũng là một nguyên liệu phổ biến hoặc dùng làm nhân trong các món mặn khác nhau như okoy, tinola, ginataan, lumpia và empanada, đặc biệt là trong các món ăn của miền bắc Luzon.
Trong ẩm thực Indonesia, đu đủ xanh và lá non được luộc để dùng làm món gỏi lalab, trong khi nụ hoa được áp chảo và xào với ớt và cà chua xanh như món rau hoa đu đủ Minahasan.
Trong ẩm thực Lào và Thái Lan, đu đủ xanh chưa chín được sử dụng để làm một loại gỏi cay, ở Lào được gọi là tam maak hoong và ở Thái Lan là som tam. Nó cũng được sử dụng trong các món cà ri Thái Lan chẳng hạn như kaeng som.
Papain
Cả quả đu đủ xanh và mủ trong nó đều giàu papain, một loại protease được sử dụng để làm mềm thịt và các loại protein khác, như trong cách nấu ăn hiện nay của người Mỹ bản địa, người dân vùng Caribe và Philippines. Nó hiện là một thành phần trong một số loại bột làm mềm thịt.
Dinh dưỡng
Phần thịt đu đủ sống chứa 88% nước, 11% carbohydrate, chất béo và protein không đáng kể (bảng). Với một lượng 100 g, quả đu đủ cung cấp 43 kilocalo và là nguồn cung cấp vitamin C đáng kể (75% Giá trị hàng ngày) và một nguồn folate vừa phải (10% Giá trị hàng ngày), nhưng có hàm lượng chất dinh dưỡng thấp (xem bảng).
Hóa chất thực vật
Vỏ, cùi thịt và hạt đu đủ chứa nhiều chất phytochemical, bao gồm carotenoid và polyphenol, cũng như benzyl isothiocyanate và benzyl glucosinate, với mức độ ở vỏ và cùi tăng lên trong quá trình chín. Hạt đu đủ cũng chứa chất cyanogen của prunasin.
Y học cổ truyền
Trong y học cổ truyền, lá đu đủ đã được dùng làm thuốc chữa sốt rét, làm thuốc phá thai, thuốc nhuận tràng, hoặc thuốc xông để làm dịu cơn hen. thịt được làm mềm với quả đu đủ có thể gây ra phản ứng dị ứng.
Một vài hình ảnh
Mua hàng tại Shopee giảm thêm 30%
