✨Nhàn mào
Nhàn mào (Thalasseus bergii) là một loài chim biển trong họ Mòng biển, gồm 5 phân loài, làm tổ thành từng tập đoàn dày đặc ở các bờ biển và hòn đảo tại các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc Cựu Thế giới. Loài này sinh sản ở các khu vực từ Cộng hòa Nam Phi, vòng quanh Ấn Độ Dương đến giữa Thái Bình Dương cho đến nước Úc. Toàn bộ các cá thể sẽ di cư khỏi khu vực sinh sản sau khi làm tổ. Loài này có họ hàng rất gần gũi với nhàn hoàng gia (Thalasseus maximus) và nhàn mào nhỏ (Thalasseus bengalensis) nhưng có thể phân biệt được chúng qua kích thước và màu sắc của mỏ.
Phần trên cơ thể (phần lưng) của nhàn mào có màu xám, phần dưới (phần bụng) có màu trắng, mỏ vàng và cái mào bờm xờm màu đen (cụp ra phía sau vào mùa đông). Con non có bề ngoài khác biệt với bộ lông hằn rõ màu xám, nâu và trắng; chúng dựa vào nguồn thức ăn từ cha mẹ trong vài tháng sau khi đủ lông đủ cánh. Tương tự tất cả các thành viên trong chi Thalasseus, nhàn mào bắt cá bằng cách lao xuống nước (thường là ở biển); chim trống tặng cá cho chim mái như một phần của nghi thức tỏ tình.
Loài chim này có tính thích nghi và đã học được cách bám theo các thuyền đánh cá để ăn những con cá bị ngư dân vứt bỏ do không phải là thứ họ muốn đánh bắt. Chúng cũng tận dụng những địa điểm dị thường để làm tổ, ví dụ trên mái các toà nhà và trên các đảo nhân tạo trong các ruộng muối hay trong hồ xử lý nước thải. Trứng và chim non bị mòng biển và cò quăm ăn, đồng thời hoạt động đánh cá, săn bắn và khai thác trứng chim của loài người đã gây suy giảm số lượng cá thể loài này. Tuy nhiên, đây là loài ít quan tâm với số lượng cá thể ổn định ở mức 500.000 trên phạm vi toàn cầu.
Phân loại
Họ Nhàn (Sternidae) là tập hợp các loài chim có kích cỡ từ nhỏ đến vừa, có mối quan hệ gần gũi với họ Mòng biển Laridae, họ Xúc cá (Rynchopidae) và họ Chim cướp biển (Stercorariidae). Hình dáng của chúng trông giống mòng biển nhưng đặc trưng cơ thể thì nhẹ hơn, cánh nhọn dài (giúp bay nhanh), đuôi toè sâu và chân ngắn. Phần trên cơ thể của đa số loài có màu xám, phần dưới có màu trắng, mào màu đen có thể thu lại hoặc cụp lại vào mùa đông.
Vào năm 1823, nhà tự nhiên học Martin Lichtenstein là người đầu tiên gọi nhàn mào bằng danh pháp Sterna bergii, nhưng sau này người ta đã chuyển nhàn mào từ chi Sterna sang chi Thalasseus như hiện nay sau khi các nghiên cứu DNA ty thể xác nhận rằng ba kiểu hình hiện diện trên đầu của nhàn (không có mào màu đen, có mào màu đen và có mào màu đen với trán màu trắng) đã dẫn đến một nhánh chim riêng biệt.
Trong chi Thalasseus, họ hàng gần nhất của nhàn mào là "nhàn mào nhỏ" (T. bengalensis) và "nhàn hoàng gia" (T. maximus).
Tên chi Thalasseus bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp là Thalassa (nghĩa là "biển") còn bergii là để tưởng nhớ Karl Heinrich Bergius (một nhà sinh vật học và dược sĩ người Phổ), người đã thu thập mẫu vật đầu tiên của loài nhàn này ở một địa điểm gần Cape Town, Nam Phi.
Nhàn mào có khoảng năm phân loài, chủ yếu khác nhau về màu sắc của phần trên cơ thể và màu sắc của mỏ. Người ta còn đề xuất một số lượng tương tự các phân loài khác nhưng số phân loài này không được coi là hợp lệ. Có nhiều tập đoàn chim sống trên vô số các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương, bao gồm Kiribati, Fiji, Tonga, quần đảo Société và quần đảo Tuamotu.
Tổ của nhàn mào nằm trên những đảo san hô, đảo đá hay đảo cát thấp, thỉnh thoảng tổ của chúng nằm trong các bụi cây còi cọc, nhưng thường thì chúng không có nơi trú ẩn. New Zealand, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Jordan
Tình trạng
Nhàn mào phân bố rộng rãi khắp nơi, ước tính trên một diện tích là 1-10 triệu kilômét vuông. Loài này được xếp vào loại Loài ít quan tâm ở cấp độ toàn cầu. Các bên ký vào thoả thuận có trách nhiệm thực hiện nhiều chiến lược bảo tồn được mô tả trong kế hoạch hành động chi tiết.
Ở Việt Nam, người ta đã quan sát thấy nhàn mào ở các vùng biển Trung Bộ như Nha Trang, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Côn Đảo.
Tập tính
Sinh sản
nhỏ|T. b. cristata Nhàn mào sinh sản tại nhiều sân chim, thường là cùng chỗ với các loài chim biển khác. Loài này sống theo cặp gồm một trống - một mái, và mối liên hệ giữa cặp đôi được duy trì suốt trong năm, thỉnh thoảng là trong nhiều kì sinh sản liên tục. Kích thước của sân chim lệ thuộc vào lượng cá ở biển, Nhàn mào không trung thành với nơi chúng sinh ra mà thường xuyên thay đổi nơi sinh sản từ năm này đến năm khác,
Những đảo cát nhiệt đới là nơi chim đậu lại và sinh sản nhưng có thể bị các hoạt động của con người gây xáo trộn.|nhỏ|trái
Một con nhàn mào trống sẽ thiết lập một lãnh địa nhỏ để chuẩn bị làm tổ và sẽ mổ bất cứ con nhàn nào dám tiến vào lãnh địa của nó. Nếu kẻ xâm nhập là một con trống khác thì kẻ xâm nhập này cũng đáp trả đòn tấn công và thường là sẽ bị chủ nhân lãnh địa đẩy lùi một cách rất mãnh liệt. Nếu kẻ xâm nhập là một con mái thì nó sẽ phản ứng thụ động lại sự hung hăng của chim trống, cho phép chim trống có thời gian nhận ra giới tính của nó và khởi động màn trình diễn (ngẩng đầu và cúi chào) để cùng nhau cặp đôi. Nhàn mào còn tặng cá như một phần của nghi lễ tỏ tình: một con chim bay vòng quanh sân chim với con cá trong mỏ và kêu lớn; con chim còn lại có thể cũng bay theo nhưng cuối cùng chúng sẽ đậu lại và trao nhau món quà.
nhỏ|Một cá thể nhàn mào với bộ lông thời kì sinh sản tại [[New South Wales, Úc.]] Tổ chim thực chất là một chỗ cát nông được đào trên một nền đất rộng và phẳng, có khi là nền dốc. Thường thì chim không lót gì vào tổ này nhưng thỉnh thoảng có đá hoặc "xương" của mực nang. Nhàn mào đẻ một (thỉnh thoảng là hai) quả trứng vào tổ rồi cả chim trống và mái cùng ấp trứng trong vòng 25-30 ngày đến khi trứng nở. Tính đồng bộ hóa trong hành vi đẻ trứng biểu hiện trong phạm vi bầy sinh sản và còn rõ hơn nữa trong phạm vi các bầy nhỏ. Chim cha mẹ không nhận diện được trứng của mình hay chim non mới nở nhưng có thể phân biệt được đâu là con mình khi chim non đạt hai ngày tuổi, tức là ngay trước khi chúng bắt đầu di chuyển ra khỏi tổ. Chim non có màu sắc rất nhợt nhạt với các đốm màu đen; chúng có khả năng sống độc lập sau khi nở nhưng được chim cha mẹ ấp ủ và cho ăn. Chim non đủ lông đủ cánh sau 38-40 ngày nhưng sau khi rời khỏi sân chim thì chúng vẫn lệ thuộc vào cha mẹ cho đến khi chúng được khoảng bốn tháng tuổi. nhỏ|Một sân chim ở [[Rạn san hô Tubbataha, Philippines]] Tại Nam Phi, nhàn mào đã thích nghi với việc sinh sản trên mái nhà, thỉnh thoảng cùng chỗ với "mòng biển vua" (Chroicocephalus hartlaubii). Vào năm 2000, nơi đây có 7,5% số cá thể nhàn sinh sản trên mái nhà. Chim cũng tìm đến các đảo nhân tạo nằm trong các ruộng muối và hồ xử lý nước thải để sinh sản. Các bầy chim nằm ở vành ngoài của sân chim cũng dễ trở thành mục tiêu của kẻ ăn thịt hơn.
Kiếm ăn
nhỏ|[[Cá mòi là thức ăn phổ biến của nhàn mào.]] nhỏ|Nhàn mào đang ngậm một con cá thuộc loài Hyporhamphus melanochir Cá là thức ăn chủ yếu của nhàn mào, chiếm gần 90% tổng lượng thức ăn của chúng. Số còn lại là động vật chân đầu, động vật giáp xác và côn trùng.
nhỏ|trái|Cá bị thải bỏ từ các tàu đánh bắt tôm có thể là thức ăn cho nhàn mào Nhàn mào kiếm ăn chủ yếu ở biển bằng cách lao vào nước và lặn xuống độ sâu tối đa là 1 m hay trầm mình từ mặt biển. Chim có thể kiếm ăn trong phạm vi 10 km từ đất liền trong mùa sinh sản. Con mồi có chiều dài từ 7–138 mm và cân nặng tối đa 30 g. Nhàn mào thường ăn những loài cá sống gần mặt nước như cá trổng và cá mòi nhưng chúng cũng ăn những động vật đáy do con người thải bỏ từ tàu đánh cá. Loài chim này cũng chủ động bám theo tàu cá, dù cho đó là vào ban đêm; trong mùa đánh cá, số thức ăn chim kiếm được từ những loại hải sản do con người thải bỏ có thể chiếm tới 70% khẩu phần ăn của chúng.
Nhàn mào có các giọt dầu màu đỏ trong các tế bào nón của võng mạc mắt. Đặc điểm này giúp cải thiện độ tương phản và làm tăng thêm thị lực tầm xa, đặc biệt là trong điều kiện không khí mù sương. Trong các giọt dầu tế bào nón của những loài chim phải nhìn qua mặt phân giới không khí/nước - như nhàn và mòng bể - có các sắc tố carotenoid nhuộm màu mạnh hơn so với các loài chim khác. Thị lực được cải thiện giúp chim nhàn định vị các đàn cá, mặc dù người ta vẫn chưa chắc chắn được là chúng nhìn vào đám thực vật phiêu sinh là mồi của cá, hay chúng quan sát các con chim nhàn khác đang lao xuống kiếm ăn. Một điểm nữa là mắt chim nhàn không nhạy với tia cực tím - một đặc điểm thích nghi phù hợp với những loài kiếm ăn trên cạn như mòng bể hơn.
Mua hàng tại Shopee giảm thêm 30%

**Lý Tông Nhân** **李宗仁** | |
x|} |